Quê tôi ở xã Mai Thủy thôn Lê Xá. Thời khai sinh, lập địa làng tôi ở phía dưới đường tàu, một vùng đất trũng có hình chữ nhật được bao quanh bởi tầng lớp tre xanh và cơ man toàn chuối là chuối.
Nhà tôi ở cuối làng sát
con mương chạy từ Tiền Thiệp đến thôn Thạch Bàn xã Phú Thủy đưa nước tưới cho
cánh đồng ba xã (Xuân - Mai - Phú) nên đến mùa mưa lũ vì đứng ở đầu sóng ngọn
gió phải hứng chịu đủ thứ.
Leo lên tra, nhìn ra cánh
đồng nước trắng xóa, đục ngầu, sóng chồm lên sóng. Nước dâng nhanh, chảy xiết
cuốn theo nhiều thứ: lác năn, rơm rạ, que lẻ, chai hụ, rắn rết, chuột kiến ...
Cứ thế bồng bềnh tấp vào vườn vào sân. Nước ngập sân, liếm láp nền nhà, dâng
ngập đầu gối, nhấn chìm bàn ghế, lút đầu người... (Nghe nói năm 1950 – năm Canh
Dần nước dâng cao đến trếng nhà).
Quê tôi thời đó, nói như
cách nói hiện nay là đã biết “sống chung với lũ” rồi. Biết sắp lụt là mọi nhà
đều đẵn chuối làm bè. Khoảng sáu, bảy cây chuối to được ghép lại buộc ba đường
ngang là thành một cái bè.
Chiều dài của bè khoảng
ba mét, rộng khoảng một mét rưỡi là những chiếc bè đảm bảo “ra khơi vào lộng”
được rồi. Bè dùng để chở người già, trẻ nhỏ, lợn gà... sơ tán
tránh lụt (đến ở với nhà bà con trên đường 15). Bè dùng để đặt bếp nấu cơm. Bè
đi vớt củi, đẩy rều. Bè được buộc vào bốn cột nhà đặt lên đó tấm ván là thành
giường nằm ngủ. Bè là cái phao cho lũ trẻ ngụp lặn, chơi đùa (Tôi biết bơi cũng
nhờ vào những dịp này).
Lúc còn nhỏ, tôi không
biết lụt lên là vất vả vì có làm gì đâu chỉ mỗi có việc tung tăng chơi nước,
dùng bè chống, kéo đi nghênh ngang hết ngỏ này đến ngỏ khác với mấy thằng bạn
cũng nghịch như tôi. Chúng tôi thường rủ nhau đi bắt chim, đâm chuột, đập rắn.
Thật là thích. Đói bụng về nhà ăn, lại lên bè đi chơi. Tối đến lại lên bè ngủ.
Cực là cực mẹ và các chị tôi thôi. Nước bắt đầu vào nhà là phải sắp xếp đồ đạc
để chuyển lên sàn. Rều theo nước tấp vào nhà, chị tôi dùng sào dài lựa thế để
đẩy đi nơi khác. Áo quần chị tôi ướt sủng, run cầm cập vì nước bạc. Cái giếng
nhà tôi thành ngang mặt đất nên không có nước sạch để dùng (hầu hết các nhà ở
làng tôi giếng đều giống nhau). Nấu cơm canh, tắm giặt, rửa ráy... đều sử dụng
nước lụt “nguyên chất”. Bởi vậy cho nên ngay trong lụt và sau lụt nhiều người
đau bụng đi ngoài, mắt đỏ hoe, da lở loét ngứa ngáy...
Sau này, khi đã có gia
đình, tôi đã xây thành giếng cao lên. Đến mùa lụt tới, tôi đem tấm ni long đậy
lên miệng giếng và dùng dây cao su bịt lại. Sau lụt, nhà tôi có thừa nước trong
dùng thoải mái, bà con đến xin về dùng cứ tấm tắc khen tôi là sáng tạo.
Nước lụt có
đợt ngâm đến ba, bốn ngày mới rút. Trong nhà nước ngang ngực, nước ngoài đường
lút quá đầu nên mọi sinh hoạt đi lại đều nhờ chiếc bè. Gạo, khoai sắn khô nhờ
có sự chuẩn bị trước nên không thiếu lắm chỉ thiếu rau. Rau rụi cả rồi. Bữa cơm
chỉ có muối và nước mắm nên sinh ra táo bón. Có một chuyện mà tôi nhớ mãi. Bữa
đó đang bưng cơm ăn, chị tôi tự nhiên chuyển chỗ, hét lên, mặt tái mét làm bè
chồng chềnh xuýt làm cả nhà rơi xuống nước. Thì ra phía chái nhà, cách chỗ cả
nhà tôi ăn cơm hơn một mét có bốn, năm đầu rắn thò ra lắc lắc, lo le cái lưỡi
còn thân hình thì quấn vào nhau như ta bện dây thừng. Lụt lội là thế đấy. Cóc
nhảy lên bè với người từng bầy, chuột chạy từng đàn trên mái nhà cắn nhau kêu
chí chóe. Còn kiến! Kiến chỗ nào cũng có. Con thì cắn ở chân, con thì cắn ở
tai. Khốn khổ. Nửa đêm, chú H, người nhà hàng, xóm kêu toán lên rồi tôi nghe
tiếng rên. Hỏi vọng sang mới biết là có con rết to bằng lưỡi hái xin vào ngủ
nhờ và đã tặng chủ nhà một món quà: Cắn một miếng vào bắp đùi.
Lụt lên khổ! Nước xuống
càng cực hơn! Trong giấc ngủ mơ màng, thỉnh thoảng tôi nhận ra tiếng mẹ, tiếng
chị tôi hỏi nhau nước rút ít nhiều? Rồi tiếng chân bì bõm của mẹ lội dò mực
nước nông sâu.
Nước rút! Cả nhà đều dậy.
Ngọn đèn dầu sáng như con đom đóm được thắp lên, ánh sáng nhập nhòa vì gió. Mỗi
người một dụng cụ. Người tát nước, người lấy giẻ lau chùi, người dùng chổi đánh
bùn loãng ra và quét đi. Nước rút tới đâu cố gắng làm sạch tới đó. Nước rút ban
ngày thì không đến nỗi gì nhưng nước xuống vào lúc khuya, rút chậm là khổ rồi.
Cứ phải đợi, phải chờ, ngâm chân trong nước trắng bệt ra tê tái.
Nước đã rút chạy về phía
xa ruộng sâu. Bầu trời xám xịt với mưa giăng dày hạt đã trở lại trong xanh
nhường chỗ cho ông mặt trời hắt những tia nắng rực rỡ sưởi ấm mặt đất. Mọi sinh
hoạt sau lụt có phần đỡ hơn. Nhưng còn đó nhiều việc phải làm. Nước dâng gặp
gió tạo nên những đợt sóng làm sập phên bưng che nhà, nhà bây giờ trống hoang
trống hoác gió cứ mặc sức lồng lộng thổi vào. Đất vườn sủi tăm phải khơi hào
thoát nước để trồng rau màu cứu đói. Vườn chuối đổ ngổn ngang, cây nọ đan chèn
lên cây kia. Rều tấp thành tường lên đến nửa cây tre. Rều thành đống. Rều thành
thảm. Đi đâu cũng thấy rều là rều. Một mùi tanh tưởi bốc lên ghê người. Ruồi
nhặng bu dày đặc, kêu ong ong, tua túa đầy trời. Chó tha xác chuột chạy khắp
nơi, cắn giành nhau kêu ăng ẳng. Phải cùng nhau làm sạch môi trường thôi. Mệt
bở hơi tai.
Năm 1986. Tháng 6 năm ấy,
theo chủ trương của thôn, cả làng tôi nhà trước, nhà sau lần lượt
chuyển lên lập làng mới ở phía trên đường tàu.
Thế là thoát lụt! Vườn
đất nhà tôi nếu có mưa thật to chỉ cần cầm cuốc khơi dòng tý chút là nước chảy
hết khô ráo. Tôi hay nói đùa “Trời mưa nước chảy, hết mưa hết nước”. Thật là
sướng!
Năm tháng cứ thế dần
trôi, công việc giảng dạy của tôi cứ theo dòng thời gian trôi vào quá khứ.
Những trường tôi đi qua không hề bị lụt nên mọi điều nghĩ về lụt cũng bị lãng
quên.
Tôi chuyển về công tác
tại trường THCS Xuân Thủy đầu năm học 2009 - 2010. Và rồi những gì đã qua, đã
đi vào dĩ vãng lại hiển hiện nhãn tiền: Lụt!
Biết vậy, nhưng tôi vẫn
cứ ngỡ ngàng, lo lắng, bị động. Nhìn con sông Kiến Giang vốn trong xanh, hiền
hòa đáng yêu là vậy mà bây giờ sao dữ dội đáng sợ đến thế. Bầu trời
xám xịt, sấm chớp ầm ầm, mưa tuôn xối xả, nước lên nhanh, mặt sông rộng ra,
nước đục ngầu chảy xiết cuốn phăng mọi thứ.
Mực nước lên đến đâu thì
cho học sinh nghỉ học? Các thôn Xuân Lai, Mai Hạ, Xuân Bồ có những đoạn đường
nào trũng sâu để bố trí giáo viên đến đó hướng dẫn học sinh về nhà
an toàn. Mực nước vào phòng học dâng cao bao nhiêu để kê tủ bàn, máy vi tính,
đồ dùng dạy học? Ai ở lại trực, ai được về? Người ở lại trực phải là nam giới!
Đội ngũ trường tôi đều ở vùng giữa - vùng bị nước ngập sâu. Mỗi người có một
hoàn cảnh riêng: Mẹ già, con dại, vợ ốm... Ai cũng có tài sản, vốn liếng của
mình như xe máy, năm bảy tạ thóc, tủ bàn, gà vịt ... cần phải được chuyển lên
cao. Công việc nặng nề này chỉ có người đàn ông mới làm được. Ở lại trực lụt
đồng nghĩa với sự chịu thiệt thòi mất mát. Lương thực, thực phẩm chuẩn bị như
thế nào để đảm bảo đời sống cho anh em giữa mênh mông sóng nước. Khi
nước rút, mười phòng học bùn dày gần gang tay lấy đâu ra lực lượng để dọn dẹp,
vệ sinh...?
Nhớ lại xưa! Thích nghi dần!
Nhìn mực nước ở cọc tiêu
cắm trước cổng trường thì cho học sinh nghỉ học. Tập hợp
đội ngũ, lên kế hoạch phòng chống. Thông tin liên lạc nắm tình hình học
sinh qua về những chỗ nước sâu. Nước bắt đầu rút khỏi phòng học dù
ngày hay đêm, sớm hay khuya bằng mọi giá phải vệ sinh sạch sẽ (điện gọi đội
ngũ, nhờ cậy phụ huynh quanh trường cùng làm).
Nước rút, sân trường ngổn
ngang rác bùn. Cảnh “kéo cày thay trâu” lại tái hiện.
Một tấm ván dài buộc dây, hai thầy giáo đi trước kéo, năm bảy học sinh đi sau
đè lên đẩy bùn. Rồi nước tưới, chổi quét, áo quần, mặt mũi thầy trò
nhem nhuốc, lấm lem. Cũng vui!
“Thủy, hỏa, đạo tặc” không
sai! Chủ quan một tý, chậm một tý là hết sạch. Vài chục máy vi tính, tủ, bàn,
ghế làm bằng gỗ ép...ước đến vài trăm triệu ngâm trong nước còn gì?
Cứ mỗi trận lụt qua, đội ngũ
hỏi thăm nhau mất mát, ướt át cái gì? Nghe cô T nói - tôi nghĩ - rất có lý và
hiệu quả. Chồng cô ấy là lính biên phòng ở xa, thấy có dấu hiệu lụt cô ấy mua
sẵn mấy tấm bạt lấy trải ra đùm mọi thứ. Thứ to như giường, tủ, thóc, xe máy
thì dùng bạt to, thứ nhỏ dùng bạt nhỏ đùm lại lấy dây cao su buộc chặt. Quá
tuyệt vời!
Sao lại trùng hợp với tôi
thế! Cái thời tôi dùng ni long bịt miệng giếng, rồi sau này khi nghe có bão,
tôi mua ni long đậy mọi thứ, dùng dây buộc lại cũng an tâm và rất an toàn.
Thế đấy! Phòng bệnh hơn
chữa bệnh! An nguy
tại thiên mà an nguy cũng tại nhân!
Xuân Thủy, ngày 09.11.2011.
Nguyễn Thanh Khiêm
(ST: Bá Hiệp)
